(Thiên kim phương)
Cấu trúc bài thuốc:
- Sừng tê giác (mài) 1,5- 4g
- Thược dược (Xích thược) 8-16g
- Đan bì 16g
- Sinh địa 20g
Cách dùng:
Thường sắc uống một thang 1 ngày chia làm 3 lần (Sừng tê giác có thể thay bằng Sừng trâu với liều cao).
Tác dụng:
Thanh nhiệt giải độc, tưởng thuyết tần ứ.
Chỉ định:
Bệnh ngoại cảm ôn nhiệt, làm nhiệt tà xâm phạm vào phần dinh huyết và tâm bào. Trên lâm sàng xuất hiện sốt cao, mê sảng, xuất huyết dưới da, thậm chí có thể xuất huyết nội tạng, chất lưỡi đỏ sẫm, mạch tế sác. Liên hệ với y học hiện đại, hay sử dụng bài thuốc này điều trị vàng da trong viêm gan nặng, suy thận xuất huyết trong các bệnh máu... mà có biểu hiện tình trạng huyết nhiệt.
Phân tích bài thuốc:
Đây là bài thuốc tiêu biểu cho phép thanh dinh, lương huyết, giải độc. Trong bài này sử dụng Sừng tê giác mài với tác dụng là thanh tâm, lương huyết và giải độc (Quân), kết hợp cùng với tác dụng: Lương huyết, dưỡng âm, thanh nhiệt của Sinh địa (Thần). Là 2 vị thuốc quan trọng của bài thuốc. Thược dược thường dùng là Xích thược và Đan bì là 2 vị thuốc hỗ trợ với tác dụng là lương huyết, tiết nhiệt, hoạt huyết, tán ứ. Xích thược với tác dụng lương huyết tán ứ có hiệu quả hơn Bạch thược. Sừng tê giác là vị thuốc quý hiếm có thể dùng Sừng trâu thay thế (Sừng tê giác dùng môi lần có thể mài 0,5g với thuốc, còn Sừng trâu mỗi lần có thể mài 20-30g với thuốc sắc uống).
Theo Phương tễ học - Nguyễn Nhược Kim